Phong Tục Làng Xóm Việt Nam – Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu
200,000₫
Số trang: 500
Chất liệu: Giấy trắng cổ
Ngôn ngữ: Tiếng Việt
Khổ giấy: B5
Sách : Phong Tục Làng Xóm Việt Nam – Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu
Miễn phí vận chuyển!
—————————————————————————————————————————————
Nếp sống của dân tộc Á Đông chịu ảnh hưởng rất 322 nhiều của Nho Giáo, theo tinh thần Khổng Mạnh với những giáo điều làm con trong gia đình, làm dân trong nước thì phải học theo cho thành thuộc không được trái. Do đó, hai chữ Phong Tục có nghĩa: Phong là sự gì người này xướng lên kẻ khác nối theo rồi thành thói quen, như vật theo gió hòa vào nhịp điệu mà không i biết; Tục là thói bắt chước người trên, lâu dần hóa thành thuộc. Nói cho gọn thì người trên cảm hóa người dưới gọi là Phong, người dưới tập nhiễm được gọi là Tục (Thượng sở hóa viết Phong, hạ sở tập viết Tục).
Người trên thì luôn luôn lo bảo thủ với những giáo điều kia, cứ “giấy rách phải giữ lấy lề“, không chấp nhận những đổi thay đột ngột làm xáo trộn xã hội; xem lời bàn của Sử Trúc Am (Thời Lê Mạt) trong quyển Dư Địa Chỉ của Úc Trai, có câu: “Dân trong nước yên theo sự thường thì sự theo cái này và bỏ cái khác không nảy nở ra, và yên nhiên không bao giờ sinh lòng ngang trái, không gì khiến cho tai mắt phải kinh hãi (vì lạ lùng bất thường) mà dễ theo vào chốn trị an. Như thế Phong Tục há chẳng tốt hay sao? Trong sách Lễ Ký có nói: “Chẳng đổi tục dân, chẳng thay lệ dân, là như thế đấy…”. Xem một lời bàn ấy ta thấy tiền nhân quan niệm về Phong Tục như thế nào.
Đời xưa cứ xét thói tục của dân mà suy luận ra chính sự người trên, thiện chính thì dân lành, ít càn dỗ. Vua di tuần thú thường là để xem xét điều ấy. Luôn luôn ý niệm như vậy, vua quan thời xưa tự cho mình có sứ mạng chăn dắt dân, thường chăm lo dạy dỗ dân bằng những huấn lệnh nhắc nhở điều hay nên làm, điều dở phải tránh, chứ không chuyên chú ban hành luật pháp trừng phạt tội lỗi. Hai tiếng “trị dân” đời xưa cũng có nghĩa là châm lo phong hóa. Nước ta vua quan các triều đại xưa với tinh thần Nho giáo Phật Giáo, thường quan tâm đến điều ấy, như vua Lê Thánh Tôn, vua Lê Hiến Tôn ban giáo điều cho dân theo, có nhiều kết quả tốt đẹp.
Sách học, ngay từ nhỏ tuổi cho đến bậc cao đại, hầu hết dạy dỗ nhắc nhở làm phát huy Cương, Thường… Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín… kết tinh cho Phong Tục.
Về Phong Tục, ta có một pho sách vô giá mà cả dân tộc thường thuộc lòng nhiều câu, được đem ra ví von, đối đáp, ca ngợi, chê trách trong những dịp hội hè, đình đám… khác nào những câu Kinh có tác dụng giáo huấn, cảnh tỉnh người đời, tức là những tục ngữ, phương ngôn, phong dao, ca dao, truyền miệng đời nọ sang đời kia, không biết có tự bao giờ, nhưng chắc hẳn đã dần dà phát xuất từ khi bắt đầu có tiếng Việt. Tất cả đều phản ảnh thói tục của dân tộc qua các thời đại.
Xem ra thì không một lề thói phong tục nào trong mọi lãnh vực của mỗi nếp sống hằng ngày, từ vật chất đến tinh thần, là không được biểu lộ ra ở một hay hai hay nhiều câu tục ngữ phong dao, rõ là một tấm gương sáng ngời phản chiếu rất trung thực dung mạo hình tượng linh hoạt người Việt Nam và cả xã hội Việt Nam.
Người ta thường nói: Nước Việt Nam 4000 năm lịch sử không bị lôi cuốn đồng hóa với Trung Hoa sau mười một thế kỷ bị đô hộ, với Pháp sau ngót một thế kỷ bị đô hộ, vì vẫn giữ được đặc tính dân tộc, có phong tục ngôn ngữ riêng. Sách Doanh Hoàn toàn chí của Trung Hoa và sách Vạn Quốc sử ký của Nhật Bản chép về Việt Nam đều công nhận là “Văn hiến chi bang”.
Cho nên từ xa xưa trong ngôn ngữ văn chương cũng như bình dân của Việt Nam ta không hề có những danh từ đồng nghĩa với kê gian của người Trung Hoa, với Sodomie, với Pédérastie và nhẹ hơn nữa với Pornographie của người Pháp (cũng như những tiếng sodomy, pederasty, pornography của người Anh người Mỹ). Không phải là tiếng ta nghèo nàn thiếu những tiếng diễn tả các thói ấy, mà chính vì người mình không hề có những thói ấy.
Nhiều thói tục còn thịnh hành cách đây chỉ độ ba chục năm, ngày nay đã trở thành quá xa lạ đối với thanh thiếu niên; mỗi khi kể đến, nếu có thể được, sẽ thêm lời giải thích sơ lược, để xem đến sẽ hiểu biết được phần nào, không đến nỗi ngỡ ngàng.
Quay về phong tục nước nhà, có nhiều thói tục ta không biết nguyên lai thế nào, duyên cớ ra sao, có những thay đổi gì qua các thời đại; mỗi khi có thấy nói đến ở sử sách, thì sẽ ghi chép để người sau có thể ý thức được khoảng thời gian xa cách.
Về các công nghệ, các vật dụng, phát sinh vào những thời kỳ nào, nếu có chứng tích xác đáng cũng sẽ được viện dẫn với danh tánh Thánh tổ mà các “nghiệp đoàn” trước đây vẫn hằng năm làm lễ giỗ hoặc tế xuân tế thu để tỏ lòng sùng bái tưởng niệm.
Cuối cùng phong tục không thể biên chép theo một qui thức nhất định nào cả. Trên kia đã nói về các chương mục mấy nhà phong tục học Âu Tây đã phân định, là để kê cứu cho biết người ta quan niệm và biên khảo về phong tục như thế nào, chứ không phải để làm khuôn mẫu cho ta theo. Các chương mục sau đây xếp đặt trên dưới không thể theo một thứ tự nào hoàn toàn thích nghi, và thường không có chuyển tiếp, nhiều khi còn đột ngột nữa.
Với tính cách toàn biên tập phong tục làng xóm Việt Nam tức (Đất lề quê thói) này cũng khá dài, những chi tiết vụn vặt tỉ mỉ sẽ bỏ qua, cũng là miễn cưỡng, ngoài ra còn thiếu nhiều tranh ảnh cũng là bất đắc dĩ.
Còn phần biên khảo về các sắc dân đồng bào thiểu số? Không có phương tiện khảo cứu đầy đủ và quan sát tại chỗ thì không thể chỉ viết theo những tài liệu đã có, hầu hết là do người Pháp để lại, hãy còn ít ỏi và còn thiếu hẳn về mấy sắc dân. Chừng nào chưa có những nhà chuyên tâm về nhân chủng học về phong tục học, tự lực làm nổi công việc sưu khảo rất khó khăn, thì như ở nước ta chỉ còn cách trông cậy ở chánh quyền trông cậy vào cơ quan văn hóa để biết để mà bảo tồn, giữ gìn bản sắc, để mà phát huy.
NHẤT THANH
Bản in lại theo nguyên gốc, chỉ còn vài bộ.
Quý vị mua sách nhắn: Tên sách, địa chỉ, điện thoại, họ tên người nhận để được chuyển sách miễn phí tận nhà.
Kiểm tra sách ưng ý mới thanh toán.
Dự án phục chế sách cổ để lấy kinh phí trang bị thiết bị dập lửa tự động góp phần bảo tồn 20.000 ngôi đình ngôi chùa Việt Nam
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.